Quản lý Thai_nghén

Chăm sóc y tế trước sinh và chăm sóc khi nuôi dưỡng cần thiết được thực hiện với những phụ nữ trướctrong thai kỳ. Mục đích của việc chăm sóc trước sinh là xác định sớm bất kỳ vấn đề tiềm tàng nào, và ngăn chặn chúng nếu có thể (thông qua việc hấp thụ dinh dưỡng hợp lý, uống vitamin vân vân), và quản lý các vấn đề, có thể hướng dẫn phụ nữ tới những chuyên gia, bệnh viện thích hợp vân vân, nếu cần thiết.

Dinh dưỡng

Một chế độ ăn cân bằng, giàu chất dinh dưỡng là yếu tố quan trọng của một chu kỳ mang thai khỏe mạnh. Việc ăn theo chế độ mạnh khỏe, cân bằng về carbohydrates, chất béo, và proteins, và ăn nhiều loại hoa quả và rau, thường đảm bảo dinh dưỡng tốt. Những người có chế độ ăn bị ảnh hưởng bởi các vấn đề sức khỏe, tôn giáo, hay những đức tin sắc tộc có thể lựa chọn tư vấn một chuyên gia về sức khỏe để có lời khuyên riêng biệt.

Một chế độ ăn có đủ lượng axít folic (cũng được gọi là folate hay Vitamin B9) gần thời điểm thụ thai đã cho thấy tác dụng làm giảm nguy cơ khiếm khuyết ống thần kinh phôi thai như spina bifida, một khiếm khuyết sinh đẻ nghiêm trọng. Ống thần kinh phát triển trong 28 ngày đầu thai kỳ, giải thích sự cần thiết đảm bảo lượng folate hấp thụ đủ trong giai đoạn đầu thai kỳ.[45][46] Folate (xuất xứ từ folia, lá) có nhiều trong rau bina (tươi, đông lạnh, hay đóng hộp), và có trong rau xanh ví dụ như xà lách, của cải đường, bông cải xanh, măng tây, các loại quả giống cam quýt và dưa, đậu xanh (ví dụ dưới hình thức món khai vị hay falafel), và trứng. Tại Hoa Kỳ và Canada, hầu hết các sản phẩm lúa mì (bột mì, mì) giàu các axít folic.[47]

DHA omega-3 là một a xít béo cấu trúc chính trong não và võng mạc, và thường có trong sữa vắt. Một yếu tố quan trọng là người phụ nữ phải hấp thụ những lượng đủ DHA trong thai kỳ và khi nuôi con giúp họ có sức khỏe tốt và cả sức khỏe cho đứa trẻ. Phôi thai đang lớn không thể tạo DHA một cách hiệu quả, và phải nhận chất dinh dưỡng thiết yếu này từ người phụ nữ qua nhau thai và trong sữa mẹ sau khi sinh.[48]

Nhiều vi chất dinh dưỡng khác cũng quan trọng cho sức khỏe và sự phát triển của phôi thai, đặc biệt tại các vùng thiếu đói trên thế giới.[49] Tại những khu vực phát triển, như Tây Âu và Hoa Kỳ, một số chất dinh dưỡng như Vitamin Dcalcium, cần thiết cho sự phát triển xương có thể cần được bổ sung.[50][51][52] Một cuộc nghiên cứu năm 2011 nghiên cứu máu dây rốn của những trẻ sơ sinh khỏe mạnh và phagts hiện những mức độ vitamin D thấp gắn liền với sự gia tăng nguy cơ nhiễm trùng đường hô hấp thấp trong năm đầu đời.[53]

Những vi khuẩn hay động vật ký sinh nguy hiểm có thể làm ô nhiễm thực vật, gồm ListeriaToxoplasma gondii. Việc rửa kỹ hoa quả và rau có thể loại bỏ những nguồn bệnh này, việc nấu chín kỹ thức ăn dùng lại, thịt, hay thịt đã qua chế biến cũng có tác dụng tốt. Phó mát mềm có thể chứa Listeria; nếu làm từ sữa tươi, nguy cơ có thể tăng thêm. Phân mèo cũng gây ra một nguy cơ đặc biệt về toxoplasmosis. Phụ nữ có thai dễ bị nhiễm trùng Salmonella từ trứng và gà, vì thế các sản phẩm này phải được nấu kỹ. Thực hiện vệ sinh trong bếp có thể làm giảm những nguy cơ này.[54]

Tăng cân

Việc hấp thụ calo phải gia tăng để đảm bảo sự phát triển đầy đủ của phôi thai. Trọng lượng cơ thể tăng lên trong một lần mang thai khác biệt tùy theo từng người phụ nữ. Viện Y tế khuyến khích lượng tăng tổng trọng lượng cơ thể cho phụ nữ bắt đầu mang thai ở trọng lượng thông thường, với chỉ số khối lượng cơ thể 18.5–24.9, là 25–35 pounds (11.4–15.9 kg).[55] Những người phụ nữ thiếu cân, với BMI chưa tới 18.5, có thể cần tăng trong khoảng 28–40 lbs. Những phụ nữ quá cân được tư vấn tăng thêm trong khoảng 15–25 lbs, trong khi một phụ nữ béo phì có thể tăng trong khoảng 11–20 lbs. Các bác sĩ và chuyên gia tư vấn về dinh dưỡng có thể đưa ra những lời khuyên khác, tùy theo cá nhân hơn, cho những bệnh nhân riêng biệt, dựa trên các yếu tố gồm tuổi mang thai thấp, tình trạng dinh dưỡng, sự phát triển của phôi thai, và tình trạng béo phì.

Trong khi mang thai, việc tăng cân không đủ hay quá cân có thể gây hại tới sức khỏe của bà mẹ và phôi thai. Tất cả phụ nữ được khuyến khích lựa chọn một chế độ ăn mạnh khỏe mà không cần quan tâm tới trọng lượng trước khi mang thai. Việc tập luyện trong khi mang thai, như đi bộ và bơi, được khuyến khích với những phụ nữ mang thai khỏe mạnh. Việc tập luyện mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe cho cả bà mẹ và phôi thai, gồm cả tác dụng ngăn chặn quá cân.[56]

Miễn nhiễm dung nạp

Phôi bên trong một phụ nữ mang thai có thể được coi như một trường hợp ghép mô bất thường, bởi về nó khác biệt về gene với người phụ nữ.[57] Theo cách tương tự, nhiều trường hợp sẩy thai tự phát có thể được miêu tả cùng cách như sự từ chối cấy ghép.[57]

Sử dụng thuốc

Thuốc được sử dụng trong quá trình thai kỳ có thể có những tác dụng tạm thời hay lâu dài trên phôi thai. Vì thế, nhiều y sĩ không muốn kê đơn thuốc cho những phụ nữ mang thai, lo ngại chủ yếu là về những tác dụng có thể gây quái thai của thuốc.

Thuốc đã được xếp vào các hạng A, B, C, D và X theo hệ thống xếp hạng của Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm (FDA) cung cấp hướng dẫn về cách chữa bệnh dựa trên những lợi ích tiềm năng và những nguy cơ cho thai nhi. Thuốc, gồm cả một số loại đa vitamin, đã được chứng minh không gây nguy cơ cho phôi thai sau những cuộc nghiên cứu có kiểm soát trên người được xếp hạng A. Mặt khác, những loại thuốc như thalidomide với nguy cơ gây hại cho phôi thai đã được chứng minh vượt quá mọi lợi ích nó mang lại được xếp hạng X.[58]

Nguy cơ nhiễm độc

Nhiều loại chất độc là một nguy cơ lớn với các phôi thai trong quá trình phát triển. Một cuộc nghiên cứu năm 2011 cho thấy rõ ràng trong cơ thể mọi phụ nữ Hoa Kỳ đều có nhiều loại hóa chất, gồm cả một số loại đã bị cấm từ thập niên 1970. Những nhà nghiên cứu đã phát hiện ra polychlorinated biphenyls, thuốc trừ sâu organochlorine, các hợp chất perfluorinated, phenols, polybrominated diphenyl ethers, phthalates, polycyclic aromatic hydrocarbons, perclorat PBDEs, các hợp chất được sử dụng làm chất chống cháy, và dichlorodiphenyltrichloroethane (DDT), một loại thuốc trừ sâu đã bị cấm ở Hoa Kỳ năm 1972, trong cơ thể 99 trên 100 phụ nữ mang thai mà họ kiểm tra. Bisphenol A (BPA) được tìm thấy trong 96 phụ nữ được nghiên cứu. Nhiều hóa chất có mức độ tập trung từng được chứng minh là liên quan tới những tác dụng có hại ở trẻ em từ những cuộc nghiên cứu khác và mọi người cho rằng nguy cơ nhiễm độc từ nhiều loại hóa chất có thể có tác động lớn hơn là việc chỉ phải đương đầu với nguy cơ bị nhiễm một loại dẫn xuất.[59]

  • Việc uống rượu trong quá trình mang thai có thể gây ra hội chứng ngộ độc rượu ở thai nhi, một hội chứng khiếm khuyết khi sinh vĩnh viễn và thường có hậu quả xấu. Một số cuộc nghiên cứu đã cho thấy việc uống ở mức độ ít hay trung bình trong thai kỳ có thể không gây ra tác hại với phôi thai, dù không lượng cồn nào được hấp thụ trong quá trình mang thai có thể đảm bảo sự an toàn tuyệt đối.[60][61][62][63]
  • Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy trẻ em bị nguy cơ nhiễm độc khói thuốc trước khi sinh có thể gặp nhiều vấn đề khó khăn về cách cư xử, thần kinh và cơ thể.[64]
  • Thủy ngân cơ bản và thủy ngân methyla là hai dạng thủy ngân có thể gây những nguy cơ trong quá trình mang thai. Thủy ngân methyla, một chất gây ô nhiễm trong cá nước mặn và cá nước ngọt trên toàn thế giới, được biết gây ra những tác động có hại với hệ thần kinh, đặc biệt trong quá trình phát triển não.[65] Ăn cá là nguồn chính gây nhiễm độc thủy ngân ở người và trong một số loài cá có thể chứa lượng thủy ngân đủ để gây ra tổn hại tới sự phát triển hệ thần kinh của phôi thai hay bào thai, thỉnh thoảng dẫn tới những khó khăn trong quá trình học tập. Thủy ngân có trong nhiều loại cá, nhưng chủ yếu trong một số loại cá lớn. Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩmCơ quan Bảo vệ Môi trường đề nghị các bà mẹ mang thai không ăn cá kiếm, cá mập, cá thu vua và cá lát và hạn chế tiêu thụ cá ngừ California ở mức 6 ounce hay ít hơn một tuần.[66]
  • Các báo cáo từ cuộc nghiên cứu của Trung tâm Sức khỏe Môi trường Trẻ em cho thấy nguy cơ nhiễm độc từ ô nhiễm không khí trong quá trình mang thai liên quan tới những hậu quả xấu khi sinh gồm cả trọng lượng sinh thấp, đẻ non và những bệnh về tim. Máu dây rốn của những đứa trẻ bị nhiễm độc cho thấy những DNA bị hư hại có liên quan tới bệnh ung thư. Những cuộc nghiên cứu tiếp theo cho thấy một mức độ chậm phát triển cao ở độ tuổi lên 3, những chỉ số IQ thấp và gia tăng các vấn đề về cách cư xử ở độ tuổi lên 6 và lên 8.[67][68]
  • Theo Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ, sự phát triển hệ thần kinh của phôi thai đặc biệt dễ bị tác động bởi sự nhiễm độc chì. Chất độc với hệ thần kinh được quan sát thấy trong những trẻ em có người mẹ bị nhiễm độc như hậu quả của khả năng của chì vượt qua hàng rào nhau thai và gây ra sự khiếm khuyết thần kinh ở phôi thai. Một lo ngại đặc biệt với phụ nữ mang thai là một số sự tích tụ chì trong xương sẽ được phát tán vào máu trong quá trình thai kỳ. Nhiều cuộc nghiên cứu đã chỉ ra bằng chứng rằng thậm chí mức độ ngộ độc chì thấp ở người mẹ cũng dẫn tới những giảm sút về khả năng trí tuệ và vận động ở trẻ em1.[69]
  • Một cuộc nghiên cứu năm 2006 cho thấy trẻ em bị nhiễm độc thuốc trừ sâu chlorpyrifos trước khi sinh có sự phát triển tâm thần và vận động kém ở tuổi lên 3 và gia tăng nguy cơ với các vấn đề về cách cư xử.[70] Một cuộc nghiên cứu năm 2007 sử dụng mô hình trên chuột cho thấy sự nhiễm độc polycyclic aromatic hydrocarbons trước khi sinh và khi bú sữa làm giảm số lượng trứng trong buồng trứng con cái con tới hai phần ba.[71] Một cuộc nghiên cứu năm 2009 về phụ nữ mang thai bị nhiễm độc tetrachloroethylene trong nước uống cho thấy một sự gia tăng nguy cơ hở hàm ếch và khiếm khuyết ống thần kinh ở trẻ sơ sinh.[72] Một cuộc nghiên cứu năm 2009 phát hiện sự nhiễm độc phthalates, hợp chất hóa học sử dụng như chất tạo dẻo trong nhiều sản phẩm chăm sóc sức khỏe cá nhân, đồ chơi trẻ em, và các thiết bị y tế, có thể là một môi trường gây nguy cơ thiếu cân ở trẻ em."[73] Một cuộc nghiên cứu năm 2010 phát hiện sự nhiễm độc trước sinh với các hợp chất chống cháy được gọi là polybrominated diphenyl ethers liên quan tới những tác động xấu tới sự phát triển thần kinh ở trẻ sơ sinh.[74]

Hoạt động tình dục khi mang thai

Hầu hết phụ nữ có thể tiếp tục hoạt động tình dục trong suốt thai kỳ.[75] Đa số các cuộc nghiên cứu cho thấy trong thai kỳ cả ham muốn và tần suất quan hệ tình dục đều giảm.[76][77] Trong sự giảm sút ham muốn tổng thể này, một số cuộc nghiên cứu chỉ ra một sự gia tăng ham muốn ở ba tháng thứ hai trước khi có sự giảm sút ham muốn ở ba tháng cuối.[78][79]Một số cá nhân có sự hấp dẫn tình dục với phụ nữ mang thai (pregnancy fetishism, cũng được gọi là maiesiophilia).

Quan hệ tình dục trong khi mang thai là một hành động có nguy cơ thấp ngoại trừ khi các bác sĩ tư vấn cần tránh quan hệ tình dục vì những lý do y tế cụ thể. Mặt khác, với một phụ nữ mang thai khỏe mạnh, không ốm yếu, không có cách an toàn hay đúng để quan hệ tình dục trong thai kỳ: chỉ cần sử dụng những quy tắc chung là cả hai người không gây áp lực lớn lên tử cung, hay một bên đè cả sức nặng lên bụng đang mang thai.[80]

Tập luyện

Ủy ban Tập luyện Sản khoa Canada khuyến cáo rằng "Mọi phụ nữ không bị chỉ định cấm đều được khuyến khích tham gia tập luyện aerobic và những bài tập như một cách sống lành mạnh trong thai kỳ". Dù không có một mức trên nào về cường độ tập luyện được quy định, những phụ nữ vẫn thường tập luyện trước khi mang thai và những người có thai kỳ khỏe mạnh và không biến chứng có thể tham gia vào các bài tập luyện cường độ khá mạnh như chạy bộ và aerobic trong dưới 45 phút, và không gây hậu quả có hại nếu họ quan tâm tới khả năng rằng mình có thể cần gia tăng hấp thu năng lượng và quan tâm tới việc không để thân thể nóng quá mức. Nếu không có những phàn nàn về y tế hay sản khoa, những phụ nữ mang thai này được khuyến khích thực hiện tổng cộng 30 phút tập luyện mỗi ngày và hầu hết nếu không phải là mọi ngày trong tuần. Nói chung, việc tham gia vào nhiều hoạt động giải trí là an toàn, với việc tránh những hành động có nguy cơ ngã cao như cưỡi ngựa hay trượt băng hay với những môn thể hao có nguy cơ gây chấn thương bụng như bóng đá hay hockey.[81]

Đại học Sản khoa và Bác sĩ phụ khoa Mỹ báo cáo rằng trong quá khứ, những lo ngại chính của việc tập luyện trong khi mang thai tập trung vào phôi thai và những lợi ích mang lại cho bà mẹ bị cho là không tương thích với nguy cơ tiềm tàng gây ra cho phôi thai. Tuy nhiên, họ viết rằng những thông tin gần đây cho thấy với những thai kỳ khỏa mạnh, các chấn thương với phôi thai hầu như không thể diễn ra. Tuy nhiên, họ có liệt kê một loạt những hoàn cảnh khi một phụ nữ phải liên hệ với trung tâm y tế trước khi tiếp tục một chương trình tập luyện. Những sự cấm chỉ định gồm: Chảy máu âm hộ, khó thở trước khi vận động mạnh, hoa mắt, đau đầu, đau ngực, mỏi cơ, những cơn đau đẻ trước kỳ hạn, giảm vận động phôi thai, ra chất dịch màng ối, và đau bắp chân hay sưng (để loại trừ viêm tĩnh mạch huyết khối).[81]

Tờ báo Nurse Practitioners (2007) báo cáo rằng nhiều phụ nữ mang thai không tập luyện và họ khuyến khích rằng cần tư vấn việc tập luyện mức trung bình cho phụ nữ mang thai như một phần của sự chăm sóc trước sinh. Họ tư vấn rằng việc tập luyện mang lại những lợi ích cho cả bà mẹ và phôi thai.[82]

Một Cochrane review năm 2006 về những nghiên cứu vấn đề tập luyện trước khi sinh đánh giá những tác động của việc tập luyện aerobic thường xuyên (ít nhất hai hay ba lần một tuần) với việc giữ gìn thân thể, quá trình co dạ con và đẻ, và tác động với quá trình mang thai ở phụ nữ khỏe mạnh. Họ kết luận rằng những bài tập aerobic thường xuyên trong khi mang thai dường như cải thiện (hay duy trì) trình trạng thân thể, tuy nhiên các tác giả lưu ý rằng những thử nghiệm là nhỏ và không có chất lượng phương pháp cao và dữ liệu là không đủ để suy luận những nguy cơ hay lợi ích quan trọng với bà mẹ hay phôi thai. Các tác giả cho rằng cần tiến hành những cuộc thử nghiệm lớn và sâu hơn trước khi có thể đưa ra những khuyến cáo rõ ràng về những lợi ích và nguy cơ của việc tập aerobic khi mang thai.[83]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thai_nghén http://www.smh.com.au/world/woman-61-pregnant-2011... http://www.preventioninstitute.sk.ca/home/Program_... http://www.3dpregnancy.com/pictures/pregnancy-week... http://www.3dpregnancy.com/pictures/pregnancy-week... http://www.3dpregnancy.com/pictures/pregnancy-week... http://www.3dpregnancy.com/pictures/pregnancy-week... http://www.3dpregnancy.com/rotatable/10-weeks-preg... http://www.3dpregnancy.com/rotatable/20-weeks-preg... http://www.3dpregnancy.com/rotatable/40-weeks-preg... http://www.3dpregnancy.com/rotatable/6-weeks-pregn...